Nhà đày Buôn Ma Thuột là một di tích lịch sử tại Đắk Lắk, Việt Nam với kết cấu là một di tích hệ thống nhà tù cũ từ thời Pháp thuộc, hiện đang do Sở Văn hóa-Thể thao và Du lịch tỉnh Đắk Lắk quản lý. Trước đó, từ 1975 đến 1979 Nhà đày được giao cho Công an Đắk Lắk quản lý.
Nhà đày Buôn Ma Thuột có diện tích gần 2ha, có địa chỉ tại số 18 đường Tán Thuật, phường Tự An, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk, được thực dân Pháp dựng lên từ những năm 1930 theo lối kiến trúc chữ U khép kín với sáu lao và một xà lim.
Thực dân Pháp kì vọng với điều kiện khí hậu khắc nghiệt, núi rừng hoang vu, cách trở về địa lí thì chế độ thực dân sẽ dễ dàng theo dõi, giám sát, giam giữ và tra tấn tù nhân. Đồng thời lợi dụng vùng đồng bào dân tộc thiểu số, sự khác biệt về ngôn ngữ làm “bình phong” để chế độ thực dân chia cắt mối liên hệ giữa đảng viên cộng sản bị bất, bị xử án nặng ở các tỉnh miền Trung với đồng bào thiểu số ở địa phương. Theo thống kê từ năm 1930-1945, đã có hơn 3.500 tù chính trị bị giam giữ, đày ải ở Nhà đày Buôn Ma Thuột.
Mặc dù bị giam giữ trong điều kiện khắc nghiệt, bị tra tấn dã man nhưng thủ đoạn tàn bạo của chính quyền thực dân không thể đè bẹp ý chí kiên cường, bất khuất của những chiến sĩ yêu nước. Tại đây, những tù cộng sản đã đoàn kết, vượt qua nỗi đau thể xác, tổ chức nhiều cuộc đấu tranh chống lại chế độ thực dân hà khắc; kiên trì, học tập giác ngộ cách mạng, biến nhà đày thành trường học văn hóa, chính trị.
Cuối năm 1940 một tổ chức bí mật với tên gọi “Lực lượng trung kiên” đã được thành lập, đây là Chi bộ Đảng đầu tiên ra đời ở Đắk Lắk không những góp phần thống nhất sự lãnh đạo của Đảng trong nhà đày mà còn tạo điều kiện thuận lợi, tạo tiền đề cho thắng lợi của Cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền vào tháng 8 năm 1945 tại Đắk Lắk và những thắng lợi quan trọng của cách mạng Việt Nam.
Nhà đày là biểu tượng của ý chí kiên cường, bất khuất, là niềm tin tất thắng vào thắng lợi của các chiến sĩ cách mạng bị bắt tù đày của cách mạng Việt Nam. Trong số hàng ngàn tù chính trị bị giam giữ, nhiều chiến sĩ cộng sản như Nguyễn Chí Thanh, Võ Chí Công, Tố Hữu, Phan Đăng Lưu, Hồ Tùng Mậu,..sau khi thoát khỏi nhà đày đã trở về tiếp tục hoạt động cách mạng và trở thành những cán bộ chủ chốt, giữ các vị trí quan trọng của Đảng, Nhà nước.
>>> Xem thêm: Bảo tàng Đắk Lắk
Nhà đày Buôn Ma Thuột được Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 1820/QĐ-TTg ngày 24/12/2018 xếp hạng là Di tích Quốc gia đặc biệt.
Kiến trúc Nhà đày Buôn Ma Thuột
Nhà đày Buôn Ma Thuột được xây dựng năm 1930 với quy mô kiên cố trên một mảnh đất hình vuông, mỗi cạnh 200m, tường cao dày bao bọc xung quanh. Nhà đày chia ra 6 lao, mỗi lao giam giữ mỗi loại tù nặng nhẹ khác nhau.
Thời Pháp thuộc
- Nhà đày bao gồm sáu dãy phòng giam (từ lao 1 đến lao 6), một dãy xà lim và một số hạng mục phục vụ cho việc cai trị: nhà quản ngục, bếp ăn, bệnh xá…Bao quanh là bốn bức tường cao, có dây thép gai ở trên.
- Nhà đày được thiết kế theo mô típ cổ điển của thực dân. Nó vừa tận dụng được mặt bằng, vừa kiểm soát được tù nhân một cách hiệu quả nhất. Mô típ mà Thực Dân Pháp xây dựng Nhà đày là theo mô típ hình chữ U, không có điểm nào kết thúc bằng chữ T hoặc rời rac nhau.
- Cổng thời Pháp: Mở từ lúc Pháp mới thiết lập Nhà đày, cửa hướng ra phía Nam.
- Hệ thống pháp canh: Bốn góc của Nhà đày có bốn tháp canh, có lính canh 24/24. Từ các tháp canh có thể quan sát được toàn bộ khuôn viên Nhà đày.
- Tường bao vây: Hệ thống tường bao cao 4m, dày 40 cm, phía trên có hàng rào dây thép gai, có điện chiếu sáng vào ban đêm.
- Lao 1,2: Được thiết kế tương đối giống nhau, dài khoảng 30m, rộng 6,5m, trên tường có cửa sổ nhỏ để ánh sáng chiếu vào, trên trần nhà có chăng dây thép gai. Lao 1, 2 là nơi để giam giữ những tù chính trị mà thực dân Pháp cho là nguy hiểm, riêng lao 2 khi chưa xây xong dãy xà lim được coi là lao biệt giam.
- Lao 3,4: Lao 3 và 4 nằm ở phía Bắc của Nhà đày, đây là nơi giam giữ tù nhân bị liệt vào loại nguy hiểm.
- Hai lao này nối liền bằng một phòng tra tấn ở giữa.
- Trong mỗi lao, trừ một lối giữa để đi lại, hai bên kê sạp gỗ ván làm chỗ nằm cho tù nhân. Các sạp gỗ kéo dài suốt hai phía:tường của lao. Phía dưới chân sạp đặt một dãy cùm gỗ và treo những ống tre cho tù nhân đi vệ sinh. Cùm làm bằng hai thanh gỗ:dày có đục lỗ hình bán nguyệt, cách một quãng ngắn có một trụ gỗ chắc chắn để giữ cho hai tấm ván khỏi rời ra.
- Lao 5,6: Ở phía đông Nhà đày, được thiết kế giống lao 1, 2. Lao 5 và 6 là nơi dành cho những người đi làm ngoài với những công việc nặng nhọc, vất vả.
- Nhà bếp: Nhà bếp nằm phía sau lao 5, 6. Có khoảng 30 người làm việc, nhà ăn tập thể có thể chứa khoảng 300 người. Đến giờ ăn, cơm được đổ vào mẹt từ đó mới có người đi phân phát cho tù nhân. Bên cạnh nhà bếp còn có chuồng gà, bể tắm lộ thiên, nhà xí công cộng cho vài chục người vào một lượt.
- Nhà làm việc của quản ngục: Là nơi làm việc của quản ngục, đồng thời cũng diễn ra những cuộc tra tấn, khai thác tù nhân khi tù nhân mới được chuyển đến nhà đày.
- Xà Lim: Là nơi giam giữ những tù nhân mà Pháp cho là nguy hiểm và cứng đầu.
- Dãy xà lim có 21 phòng, mỗi phòng rộng 1m, dài 2,5m. Trong phòng có một sạp nằm, cuối sạp có hai ống tre, thanh cùm chân,:cánh cửa chỉ có một lỗ vuông nhỏ để lính canh giám sát.
- Bên ngoài là khoảng sân rộng để tù nhân ra đó tắm nắng, có những cục tạ to dùng để cùm chân.
- Bệnh xá: Nằm ngay ở cổng phía Tây của Nhà đày. Hiện nay có trưng bày tượng ở trong.
- Nhà xưởng: Thực dân Pháp sử dụng tù nhân để làm những công cụ lao động, xiềng xích, gông cùm…
Thời Chiến tranh Việt Nam
- Năm 1954 chính quyền Việt Nam Cộng hòa sử dụng lại Nhà đày và xây một bức tường chia Nhà đày làm hai phần, một bên làm Kho quân nhu, một bên làm Trung tâm cải huấn. Lao 3,4 là nơi được dùng để giam giữ tù nhân, ngăn hai lao này ra thành những phòng nhỏ và cho xây dựng thêm một số hạng mục khác.
- Cổng: Cánh cổng phía Tây được mở thêm, ở phía đường Tán Thuật. Hiện nay đây là cổng vào Nhà đày.
- Xà Lim: Lúc đầu đây là câu lạc bộ cho lính canh và quản ngục sinh hoạt, sau được ngăn ra để làm dãy xà lim. Khác với thời Pháp là lỗ cùm hình vuông và cửa có hai then cài.
- Nhà Bình An: Nhà Bình An được xây dựng để cho những tù nhân theo Phật giáo sinh hoạt.
- Nhà có kiến trúc 4 mái, phía trước có bánh xe Pháp luân và cuốn thư, biểu tượng của đạo Phật, hai bên đầu cuốn thư có hoa sen và thanh kiếm. Phía dưới có câu “Quốc Thái Dân An”, viết nổi. Hàng cột ở dưới mô phỏng lối kiến trúc cửa tam quan truyền thống.
- Nhà Nguyện: Là nơi sinh hoạt của những người theo Công giáo. Trên nóc có một cây thánh giá lớn, phía dưới có chữ “NHÀ NGUYỆN” đắp nổi.
- Nhà lao nữ: Thời Pháp do số lượng tù nữ ít (2 người) nên không có nơi giam tù nữ riêng. Đến thời này, phần cuối lao 5 được ngăn ra thành hai buồng giam cho nữ.